Từ trải nghiệm gắn bó với nông nghiệp, theo doanh nhân Nguyễn Thị Thành Thực , đâu là những điểm nhấn có thể xem là thành tựu quan trọng nhất của ngành hiện nay?
Trong lịch sử, chúng ta từng trải qua nạn đói 1944–1945, rồi tiếp đến là chiến tranh kéo dài.
Tuổi thơ thế hệ tôi gắn liền với nghèo đói, cơ cực.
Chúng tôi làm ngày đêm nhưng vẫn thiếu ăn, bởi còn phải chi viện cho cách mạng miền Nam.
Kể cả sau thống nhất đất nước, tình hình vẫn còn khó khăn. Đến Khoán 10, đời sống mới ấm no, thu nhập và năng suất lao động tăng lên.
Nông nghiệp Việt Nam đã đi một chặng đường dài: từ thiếu ăn, chiến tranh, đến khi đủ ăn, xuất khẩu, có thương hiệu và góp phần vào an ninh lương thực toàn cầu.
Những cơ hội đã bỏ lỡ trong nông nghiệp
Thay đổi thói quen canh tác và áp lực sản lượng
Sau 80 năm, những thành tích về sản lượng, năng suất, hiệu quả sử dụng đất đai, hay thu nhập của người dân đều tăng rất tốt. Thế nhưng, cũng có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ.
Trong chiến tranh, chúng ta bị cấm vận, không có hóa chất để sử dụng trong nông nghiệp, nên tất cả đều là kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.
Chính thời điểm đó, thế hệ chúng tôi được tiếp thu nhiều nhất về nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn và giống, gien bản địa, cũng như hiểu rõ nhất giá trị ẩm thực của các loại gia vị tự nhiên, các món ăn truyền thống.
Tuy nhiên, ngày ấy năng suất còn thấp, bởi chúng ta chưa có khoa học kỹ thuật, chưa có sự nghiên cứu bài bản, nên lao động trong ngành nông nghiệp rất vất vả, phải cày cấy, làm hoàn toàn thủ công.
Nếu như chúng ta giữ được cách làm hữu cơ như thế, rồi phát triển lên để cho năng suất cao, thì tốt đẹp vô cùng.
Nông sản gắn với sức khỏe và giá trị bản địa
Hệ lụy từ lạm dụng hóa chất nông nghiệp
Nhưng sau khi mở cửa nền kinh tế, các loại hóa chất được nhập khẩu, được đưa vào nông nghiệp, khiến năng suất cao vọt lên, người làm nông nhàn hơn, không còn vất vả nữa.
Chúng ta còn chưa có kinh nghiệm, còn thiếu kiến thức để phân tích lợi hại, và bắt đầu có sự lạm dụng các hóa chất này.
Tôi nhớ như in những ngày tôi cùng mẹ đeo bình thuốc trừ sâu đi phun giữa trời nắng chang chang, say thuốc, rồi phải đi cấp cứu.
Lạm dụng hóa chất trong nông nghiệp, đã dẫn đến hệ lụy là biết bao ngôi làng chìm trong bệnh tật. Rõ ràng nông dân đã bỏ công, bỏ sức để làm ra nông sản, cuối cùng lại phải bán hết cả gia sản đi để chữa ung thư.
Cơ hội định vị lại với nông nghiệp hữu cơ và bản địa
Trong khi đó, các tập đoàn ở Mỹ, châu Âu, chính những người tạo ra phân, thuốc hóa học lại đưa ra phân tích rằng các loại hóa chất này không tốt cho sức khỏe con người và tập trung nghiên cứu công nghệ vi sinh, hữu cơ, đưa ra các tiêu chuẩn sản phẩm cao hơn, quay trở lại những kiến thức, kinh nghiệm mà chúng ta đã làm rất tốt từ mấy chục năm trước.
Đó là sự thiệt thòi của những nước không định vị được thị trường, cũng không định vị được giá trị của mình.
Vậy làm thế nào để chúng ta định vị đúng giá trị của mình trong nông nghiệp thế giới?
Bây giờ là giai đoạn kinh tế khá giả, phát triển rồi, người dân quan tâm đến sức khỏe hơn, quan tâm đến môi trường hơn, quan tâm đến ăn đúng hơn.
Và chúng ta phải quay lại nhìn lại những thứ cách đây 60 năm chúng ta đã làm, những kinh nghiệm về nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, tìm lại sự khác biệt, những giống gien bản địa, những đặc thù của các tiểu vùng khí hậu
ví dụ như những khu vực có chênh lệch nhiệt độ ngày đêm cao, hay những nơi rất dồi dào khoáng chất tự nhiên – tất cả là lợi thế mà trời ban mà chúng ta cần tìm lại.
Thách thức và bài học cho nông nghiệp Việt
Thói quen canh tác lạc hậu và áp lực sản lượng
Và chúng ta phải làm mới những cái cũ ấy, bằng việc mà kết hợp ứng dụng với khoa học công nghệ, với nhu cầu của thị trường bây giờ.
Tất nhiên, sẽ lại phải mất một thời gian rất dài để thay đổi thói quen canh tác, thay đổi cách làm.
Nhưng nếu còn chạy theo sản lượng, chúng ta vẫn sẽ thua những nước đã đầu tư tự động hóa, công nghiệp hóa với những cánh đồng mẫu lớn.
Ngày trước, chúng ta thiếu một yếu tố vô cùng quan trọng – thiếu thông tin.
Vì thiếu thông tin nên chúng ta cập nhật khoa học công nghệ rất chậm và đắt đỏ. Chính vì thế, sự hội nhập và chuyển đổi số – những điều mà
Chính phủ đang rất quan tâm – sẽ đem lại cơ hội cực kỳ lớn cho nông nghiệp, nhất là khi thương mại điện tử kết nối xuyên biên giới, đưa chúng ta đến gần thị trường hơn.
Nông sản gắn với sức khỏe và giá trị bản địa
Đặc biệt là thời nay, sau đại dịch Covid-19, người ta càng nói nhiều về về sức khỏe. Những món ăn bản địa của Việt Nam ngày xưa, mỗi một món ăn là một bài thuốc. Việt Nam cũng là thiên đường của của các loại nông dược.
Những rau dại, ví dụ như rau dền, rau sam rồi rau tầm bóp ngày xưa, chúng ta là coi nó là cỏ dại, chúng ta phải diệt, nhưng đó lại là những nông dược giá trị nhất, bởi sức sống của nó rất là mãnh liệt và nhiều dưỡng chất, vậy mà chúng ta lại đi diệt phá?
Trong khi những giống cây ngoại lai du nhập về, chúng ta lại phụ thuộc vào giống, vào kỹ thuật của họ đó. Ta đang rơi vào một vòng luẩn quẩn như vậy.
Những trọng tâm nào mà ta cần quan tâm lớn nhất để thực sự làm nổi bật sự những lợi thế mà Việt Nam có trong nông nghiệp?
Trọng tâm cần quan tâm để phát triển bền vững
Có những khái niệm rất quan trọng trong nông nghiệp hiện đại, mà Việt Nam chưa thực sự quan tâm.
Hiện nay, chúng ta chủ yếu quan tâm đến an ninh lương thực. Nhưng khi đã xuất khẩu mạnh, không nên chỉ dừng ở an ninh lương thực.
Nhiều giống lúa ngắn ngày ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ mất 80-90 ngày/vụ, có thể canh tác đến bốn vụ mỗi năm.
Bây giờ, chúng ta cần hướng đến “an ninh dinh dưỡng” – xu hướng được nhiều quốc gia tiên tiến chú trọng.
An ninh dinh dưỡng là ăn đúng, ăn đủ, ăn phù hợp, là rất quan trọng. Đầu tiên là để giảm bệnh, giảm gánh nặng y tế cho xã hội, làm cho cuộc sống của con người hạnh phúc hơn.
Triết lý của ông tổ ngành y Hippocrates là “Our food should be our medicine and our medicine should be our food” (“Thực phẩm của chúng ta nên là thuốc, và thuốc nên là thực phẩm”). Tôi tôn thờ triết lý này để ứng dụng cho ngành nông nghiệp.
Thiếu chiến lược thương hiệu quốc gia cho nông sản
Vi sinh là lĩnh vực công nghệ cao trong nông nghiệp, nhưng Việt Nam vẫn chưa đầu tư đúng mức.
Ứng dụng vi sinh giúp tái tạo đất, kháng bệnh, giảm phụ thuộc vào thuốc hóa học.
Dù Việt Nam có tiềm năng lớn, nhưng vẫn phải nhập vi sinh hữu cơ từ Mỹ, châu Âu. Trong khi đó, Thái Lan và Trung Quốc đã phát triển mạnh ngành này.
2. Chuỗi giá trị nông nghiệp thiếu công bằng và bền vững
Một yếu tố nữa khiến chuỗi giá trị các ngành hàng của chúng ta không bền vững, đó là chúng ta không có thương mại công bằng.
2.1. Nhiều mắt xích nhưng lợi ích chưa cân bằng
Một chuỗi giá trị trong nông nghiệp, trồng trọt có liên quan đến rất nhiều mắt xích: từ người cung cấp giống, đến người sản xuất, người thu hoạch, người vận chuyển, người chế biến, người bán hàng…
Thiếu công bằng ở đây, có thể là những người đi buôn, đầu tư tài chính nhiều, nhưng mức độ rủi ro thấp. Trong khi đó, người nông dân trồng cả năm trời mới được thu hoạch.
Có thể là họ cũng không phải đầu tư nhiều, mà nhờ vào khí hậu, thổ nhưỡng, nhờ vào đất đai có sẵn. Thế nhưng họ cũng chịu rủi ro rất lớn.
2.2. Công đoạn chế biến – mắt xích quan trọng nhưng bị lãng quên
Hay chúng ta có những vùng trồng lúa giỏi, cũng có những vùng không có đất để sản xuất, thì lại làm chế biến giỏi. Nhưng cả chuỗi này, công đoạn chế biến là đầu ra, lại thiếu sự quan tâm.
2.3. Bài học từ làng nghề truyền thống Thổ Hà
Làng bánh đa nem Thổ Hà vừa được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là đặc sản ngon nhất thế giới, tôi thường chọn làm quà ngoại giao.
Tuy nhiên, Thổ Hà không có đất phát triển làng nghề. Nhà cửa chật hẹp, con cháu có nguy cơ bỏ nghề. Cơ sở vật chất thiếu thốn khiến sản phẩm không đạt chuẩn xuất khẩu.
Vì vậy, những địa phương như Thổ Hà rất cần được quan tâm. Việc giữ lại nghề truyền thống sẽ tạo nền tảng cho doanh nghiệp chế biến và phát triển du lịch trải nghiệm.
Muốn một ngành hàng bền vững, cả chuỗi giá trị phải công bằng. Ai cũng cần có thu nhập xứng đáng và cuộc sống tốt hơn.
Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm an toàn, bền vững. Từ đó, hình thành một chuỗi trách nhiệm chung. Đó chính là công bằng.
Tóm lại, nông nghiệp Việt vẫn thiếu những yếu tố căn cơ để phát triển bền vững. Tuy nhiên, nếu làm đúng, đây là giai đoạn quan trọng để khẳng định vị thế nông nghiệp Việt Nam.
Vậy đâu là căn cơ để nông nghiệp Việt có thể khẳng định vị thế, kể cả với quốc tế, và với những lĩnh vực khác mà Việt Nam đang dồn nhiều nguồn lực phát triển?
Vai trò của công nghệ và chuyển đổi số
Ta đang nói nhiều về công nghệ, công nghiệp, nhưng rõ ràng không thể dồn toàn bộ nguồn lực xã hội tập trung vào đó được.
Tất nhiên, với những lĩnh vực đó, có thể một người đi làm tạo ra thu nhập nuôi cả gia đình.
Thế nhưng người ta sẽ đi du lịch ở đâu, ăn gì, chơi gì?
Ăn, và chơi là hai thứ mà nông nghiệp Việt Nam có thể làm rất tốt.
Món ăn Việt Nam được thế giới ưa chuộng. Giá trị này sẽ còn tăng nếu chúng ta giữ cách ăn đúng và dinh dưỡng.
Du khách đến Việt Nam không chỉ muốn tận hưởng khí hậu trong lành, môi trường tốt, mà còn mong được thưởng thức ẩm thực ngon và đúng chuẩn.
Ăn ngon rồi lại có thể mua thường xuyên, thông qua thương mại xuyên biên giới đấy. Đó sẽ là câu chuyện của Việt Nam, tận dụng hoàn toàn lợi thế của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Còn hiện nay, đến bản thân chúng ta còn không dám về sống ở nông thôn, bản thân chúng ta còn sợ ô nhiễm, sợ chất độc, thì làm sao phát triển được ngành du lịch?
Nông nghiệp gắn với sức khỏe và du lịch
Xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản Việt
Nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn nhiều điểm cần điều chỉnh và rút kinh nghiệm để xây dựng thương hiệu bền vững.
Với nông sản, không một doanh nghiệp hay nông dân đơn lẻ nào có thể tạo thương hiệu quốc gia. Việc này cần vai trò dẫn dắt từ Chính phủ.
Ví dụ như nói đến Thái Lan người ta sẽ nghĩ ngay đến sầu riêng. Dù Malaysia làm ngành hàng này tốt hơn rất nhiều, giống cũng vượt trội hơn rất nhiều nhưng Thái Lan lại có thương hiệu tốt nhất.
Thái Lan thậm chí có đại diện ngành hàng sầu riêng ở ngay tại Trung Quốc. Gặp bất kỳ vấn đề gì họ đều có thể xử lý ngay, phản ứng ngay.
Việt Nam hiện chưa có nhiều doanh nghiệp mạnh trong nông nghiệp. Nguồn vốn đầu tư cũng còn hạn chế, ít doanh nghiệp Việt tham gia sâu.
Phần lớn thương nhân nước ngoài trực tiếp mua tại thị trường, ngay từ nguồn cung. Vì vậy, chúng ta chưa thật sự sâu sát với thị trường.
Quảng bá ẩm thực Việt Nam ra thế giới
Chúng ta rất cần một chiến lược thương hiệu quốc gia.
Chúng ta đã làm rất tốt nguồn cung lúa gạo. Nhưng cần hiểu sản phẩm gạo của mình, người ta mua về để làm gì.
Hiện chưa thấy thương hiệu cơm Việt bán ở nước ngoài. Trong khi đó, nhiều thương hiệu cơm ăn liền ngoại lại phát triển mạnh.
Nói đến phở là nói đến Việt Nam. Nhưng dân tộc bán phở nhiều nhất trên thế giới lại là người Hoa, vì họ rất nhạy bén.
Bánh đa nem là đặc sản Việt. Thế nhưng, ra nước ngoài lại chủ yếu mang thương hiệu Thái, và giá bán cũng cao hơn.
Thử hỏi có bao nhiêu thương hiệu phở Việt bán được ra nước ngoài? Tại sao chúng ta không xuất khẩu được nhiều thương hiệu phở hay bánh đa nem?
Trong khi đó, Trung Quốc đang hậu thuẫn rất lớn cho doanh nghiệp đi đầu tư ở nước ngoài để xây dựng thương hiệu.
Cơ hội từ cà phê đặc sản và sản phẩm giá trị gia tăng – Bacte
Cà phê Robusta Việt Nam cũng chưa có tên trong cà phê đặc sản thế giới. Mỹ và Anh là hai nước không trồng cà phê nhưng lại thành lập Hiệp hội cà phê đặc sản, họ lại chi phối ngành cà phê.
Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam
Ưu tiên các ngành hàng chủ lực: gạo và cà phê đặc sản
Người Việt ở nước ngoài cũng chưa có những cộng đồng mạnh về ẩm thực.
Chúng ta cần suy nghĩ về điều đó. Nhà nước có thể có đại diện ở thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, cơ quan nhà nước khó nắm hết thông tin thị trường.
Không thể cập nhật sát sao bằng các doanh nghiệp và nhà sản xuất được.
Trước mắt, những ngành hàng cần làm trước là sản phẩm từ gạo và cà phê.
Đặc biệt, cà phê đặc sản là cơ hội lớn cho doanh nghiệp nhỏ, nông hộ và hợp tác xã Việt Nam.
Loại cà phê này đòi hỏi sự tỉ mỉ. Làm công nghiệp cũng khó tạo ra cà phê đặc sản.
Thu hoạch phải chọn trái chín, khó dùng máy móc. Chế biến cần ủ men đến hơn 20 ngày mới hoàn thành một mẻ cà phê.
Cho nên, những hạt cà phê đặc sản có thể 1 triệu 2 triệu một ký hoàn toàn xứng đáng.
Quảng bá ẩm thực và xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài
Cần quảng bá thật mạnh ở các nước. Nhắc đến Việt Nam là phải thưởng thức cà phê Việt, phải ăn phở, ăn cơm Việt.
Chúng ta cần cộng đồng người Việt ở nước ngoài làm nông nghiệp và ẩm thực, dù quy mô nhỏ. Những phương pháp chế biến tinh túy ấy không thể sản xuất công nghiệp.
Mong ước của tôi là sau này, số người Việt làm chủ lĩnh vực ẩm thực ở nước ngoài nhiều như số người Việt làm chủ tiệm nails.
Cảm ơn chia sẻ của bà!